GS.TS Cao Ngọc Lân 


I . KHÁI NIỆM VỀ LẼ SỐNG .
1. Định nghĩa về lẽ sống
1.1. Lẽ sống cuộc đời.
Lối sống là những nét điển hình, được lặp đi lặp lại và định hình thành phong cách, thói quen trong đời sống cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc, hay là cả một nền văn hóa. Thuật ngữ lối sống lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà tâm lý học người Áo Alfred Adler (1870-1937). Lối sống cá nhân được đặc trưng bởi cái nhìn về thực tại (thế giới quan), cá tính, bản sắc cá nhân (bản ngã hay là cái tôi) cũng như những ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh như gia đình, nơi sinh sống, giáo dục, văn hóa và đặc biệt là truyền thông. Lối sống có thể bao gồm quan điểm về chính trị, tôn giáo, sức khỏe, giới tính, đạo đức, sự thân mật, và nhiều hơn nữa. Tất cả các khía cạnh này đóng vai trò trong việc hình thành lối sống của một ai đó. Con người ta sinh ra luôn tìm cho mình một lẽ sống tốt cho cuộc đời, hay nói đúng hơn là một lý tưởng. Lý tưởng này sẽ hướng dẫn cuộc đời họ vượt qua mọi chông gai và can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh. Vì có một lý tưởng để theo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời, là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người trên trần gian. Phải chăng những người bất hạnh chính là những người không lý tưởng, sống không mục đích, và càng không biết mình sẽ đi về đâu? Liệu lý tưởng sống có phải là một điều gì quá lớn lao mà chúng ta cần phải nỗ lực mới rèn luyện được cho mình? Không hẳn vậy , lý tưởng sống tốt đẹp là làm được nhửng điều tốt đẹp cho dân tộc, cho xã hội và cho gia đình .Sinh ra ở đời, ai trong chúng ta cũng khao khát được sống hạnh phúc, bình an , với lòng khao khát đó thúc giục chúng ta đi kiếm tìm hạnh phúc. Để đạt được niềm khát vọng đó, người ta luôn tìm cho mình một lẽ sống cho cuộc đời, hay nói đúng hơn là một lý tưởng. Lý tưởng này sẽ hướng dẫn đời họ vượt qua mọi chông gai và can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh. Vì có một lý tưởng để theo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời, là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người trên trần gian. Phải chăng những người bất hạnh chính là những người không lý tưởng, sống không mục đích, và càng không biết mình sẽ đi về đâu?


1.2. Lý tưởng sống là gì?
- "Khi còn khoẻ mạnh, mỗi người cũng đã từng suy nghĩ điều gì là quan trọng nhất trong cuộc đời? Điều quan trọng nhất chính là triết lý sống của một con người” (Trích - Eugene O’Kelly - Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành Công ty Kiểm toán Quốc tế KPMG, Hoa Kỳ...)
"Bạn sẽ không làm được gì nếu bạn không có mục đích, bạn cũng không làm được gì vĩ đại nếu mục đích của bạn tầm thường" (Điđơro) Triết lý sống hay mục đích sống cũng chính là lý tưởng sống của mỗi con người. Để nói về lý tưởng của thanh niên thời nay, Thủ tướng Phan Văn Khải đã từng căn dặn các tài năng trẻ rằng: "Tài năng trẻ muốn thành công không chỉ cần học giỏi mà còn cần có lý tưởng, hoài bão, có lòng yêu nước, sống nhân ái, thương người như thể thương thân..."
Bạn có bao giờ tự hỏi bạn tồn tài trên cuộc đời vì lý do gì không? Một câu hỏi lẽ ra rất dễ nhưng nó làm cho bạn phải bắt đầu ngồi lại suy nghĩ về bản thân mình. Cũng giống như một doanh nghiệp ra đời họ phải phát biểu sứ mạng của họ. Ví dụ sứ mạng của thương hiệu điện thoại Nokia có thể được thể hiện qua slogan là "Connecting people", vậy sứ mạng của cuộc đời bạn là gì...?
Đây là băn khoăn của không ít những bạn trẻ thời nay. Với một số người bình thường thì cho rằng đời sống quá bận rộn, làm gì có thì giờ để đặt vấn đề niềm tin hay lý tưởng sống. Cũng có bạn cho rằng cứ sống tự nhiên, đến đâu hay đó, làm gì phải bận tâm đến niềm tin hay lý tưởng sống.
Những người nói như vậy thật ra là cũng đã có niềm tin hay lý tưởng sống cho chính mình. Niềm tin hay lý tưởng đó là sống đến đâu hay đó, không cần suy nghĩ hay đặt vấn đề. – Với những người sống có lý tưởng thì "Cái quí nhất của con người là cuộc sống. Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn của mình, để đến khi nhắm mắt xuôi tay, mà có thể nói rằng: Tất cả đời mình ta đã cống hiến cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người. (Trích Thép đã tôi thế đấy tác giả Nikolai Ostrovsky) . Để đạt được lý tướng cao đẹp này thì ta phải sống gấp lên mới được. Vì bệnh tật vô lý hay một sự bi đát tình cờ nào đó có thể bỗng nhiên cắt đứt cuộc đời này".

1.3. Đặc điểm của lẽ sống.

a. Môi trường sống ảnh hưởng tới lẽ sống.

Có hai loại môi trường cho một lối sống: tự nhiên và xã hội. Môi trường tự nhiên là điều kiện trong đó một người, động vật, thực vật sinh sống. Đối với một lối sống cá nhân, ảnh hưởng của môi trường tự nhiên này là quan trọng, ví dụ như không khí trong lành, nước sạch, nhà cửa sạch sẽ, đường phố sạch sẽ có ảnh hưởng nhất định. Môi trường xã hội bao gồm không gian nơi một cá nhân sống và điều kiện làm việc, mức sống, mức thu nhập, trình độ học vấn, cộng đồngtín ngưỡng tôn giáo bất kỳ (nếu có).

b. Truyền thông ảnh hưởng tới lẽ sống.

Công nghệ và truyền thông đa dạng có thể góp phần thay đổi cuộc sống của mọi người trong xã hội. Nó có tác động tích cực và tiêu cực đến cuộc sống hàng ngày. Sự tích cực và tiêu cực của công nghệ phụ thuộc vào việc tiếp xúc và sử dụng nó như thế nào.

c. Phải sống có lý tưởng!

Bạn có thể ra đi từ nhiều phía, theo những con đường khác nhau, nhưng cuối cùng mỗi người phải lựa chọn cho mình mục đích của cuộc sống. Ta sống cho ta, cho những người thân, bạn bè và cho mọi người. Vì vậy, chỉ có hạnh phúc khi "mình sống vì mọi người và mọi người phấn đấu vì hạnh phúc của từng người" Rõ ràng lý tưởng là mục đích sống, là ý nghĩa của mỗi cuộc đời. Lý tưởng quyết định sự thành công trong cuộc sống. Lý tưởng dẫn dắt sự nghiệp, tăng thêm sức mạnh cho mọi người để đạt đến thành công trong sự nghiệp. Lý tưởng cho ta sức mạnh vượt qua khó khăn và thử thách trong cuộc sống.
Lý tưởng của ta không cần lớn lao dù chỉ là một chiếc lá, một người quét đường cũng cần có cho mình một lý tưởng bình dị nhưng như những vĩ nhân: "Một người quét đường hãy quét những con đường như đại nhạc sư Beethoven đã soạn nhạc, hãy quét những con đường như đại văn hào Shakespeare đã làm thơ...".



II. KHÁI NIỆM VỀ VẤN ĐỀ LỚN NHẤT.

2.1. Tính thứ tự của vũ trụ

Triết học phương đông và phương tây đều thống nhất vấn đề lớn nhất của vũ trụ là Thuyết Am Dương hai khái niệm này mở đầu cho kinh dịch xuyên suốt mọi thơi đại . mọi khoa học xã hội Vấn đề lớn thứ hai là Ngũ hành sinh khắc Thuyết này là trong tâm của bộ môn Phong Thủy vận dung cho mọi công trình xây dựng cho quan hệ xã hội , cho sự phát triển của loải người . Thuyết lớn thứ ba lả Luật nhân quả cho tất cả loài người Trời, Trần sự vật trong vũ trụ. Người viết Xin trình bày theo nội dung trên

a. Học thuyết âm dương Kinh Dịch.

Học thuyết âm dương không những được nhiều trường phái triết học tìm hiểu lý giải, khai thác mà còn được nhiều ngành khoa học khác quan tầm vận dụng. Có thể nói, ít có học thuyết triết học nào lại thâm nhập vào nhiều lĩnh vực của tri thức và được vận dụng để lý giải nhiều vấn đề của tự nhiên, xã hội như học thuyết này. Việc sử dụng phạm trù âm dương đánh dấu bước phát triển đầu tiên của tư duy khoa học phương Đông nhằm đưa con người thoát khỏi sự khống chế về tư tưởng của các khái niệm thượng đế, quỷ thần truyền thống. Chính vì thế, sự tìm hiểu học thuyết âm dương là một việc cần thiết để lý giải những đặc trưng của triết học phương Đông. Lý luận về âm dương được viết thành văn lần đầu tiên xuất hiện trong sách “Quốc ngữ”. Tài liệu này mô tả âm dương đại biểu cho hai dạng vật chất tồn tại phổ biến trong vũ trụ, một dạng có dương tính, tích cực, nhiệt liệt, cứng cỏi và một dạng có âm tính, tiêu cực, lạnh nhạt, nhu nhược… Hai thế lực âm và dương tác động lẫn nhau tạo nên tất cả vũ trụ. Sách “Quốc ngữ” nói rằng “khí của trời đất thì không sai thứ tự, nếu mà sai thứ tự thì dân sẽ loạn, dương mà bị đè bên dưới không lên được, âm mà bị bức bách không bốc lên được thì có động đất”. - Lão Tử là ông tổ của Đạo giáo (khoảng thế kỷ V – VI trước CN) cũng đề cập đến khái niệm âm dương. Ông nói: “Trong vạn vật, không có vật nào mà không cõng âm và bồng dương”, ông không những chỉ tìm hiểu quy luật biến hoá âm dương của trời đất mà còn muốn khẳng định trong mỗi sự vật đều chứa đựng thuộc tính mâu thuẫn, đó là âm dương. Học thuyết âm dương được thể hiện sâu sắc nhất trong “Kinh Dịch”. Tương truyền, Phục Hy (2852 trước CN) nhìn thấy bức đồ bình trên lưng con long mã trên sông Hoàng Hà mà hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ, mới đem lẽ đó vạch thành nét. Đầu tiên vạch một nét liền (-) tức “vạch lề” (16/4/2019 https://sites.google.com/site/traidattoantap/lich-su/su-hinh-thanh-va-phat-trien-hoc-thuyet-am-duong-ngu-hanh-trong-tu-tuong-co-dai-trun…) để làm phù hiệu cho khí dương , và một nét đứt (–) là vạch chẵn để làm phù hiệu cho khí âm. Hai vạch (- -), (–) là hai phù hiệu cổ xưa nhất của người Trung Quốc, nó bao trùm mọi nguyên lý của vũ trụ, không vật gì không được tạo thành bởi âm dương, không vật gì không được chuyển hóa bởi âm dương biến đổi cho nhau. Các học giả từ thời thượng cổ đã nhận thấy những quy luật vận động của tự nhiên bằng trực quan, cảm tính của mình và ký thác những nhận thức vào hai vạch (–) (- -) và tạo nên sức sống cho hai vạch đó. Dịch học quan niệm vũ trụ, vạn vật luôn vận động và biến hóa không ngừng, do sự giao cảm của âm dương mà ra, đồng thời coi âm dương là hai mặt đối lập với nhau nhưng cùng tồn tại trong một thể thống nhất trong mọi sự vật từ vi mô đến vĩ mô, từ một sự vật cụ thể đến toàn thể vũ trụ. Theo lý thuyết trong “Kinh Dịch” thì bản nguyên của vũ trụ là thái cực, thái cực là nguyên nhân đầu tiên, là lý của muôn vật: “Dịch có thái cực sinh ra hai nghi (Âm Dương), hai nghi sinh ra bốn tượng, bốn tượng sinh ra tám quẻ”. Như vậy, tác giả của “Kinh Dịch” đã quan niệm vũ trụ, vạn vật đều có bản thể động. Trong thái cực, thiếu dương vận động đến thái dương thì trong lòng thái dương lại nảy sinh thiếu âm, thiếu âm vận động đến thái âm thì trong lòng thái âm lại nảy sinh thiếu dương. Cứ như thế, âm dương biến hoá liên tục, tạo thành vòng biến hóa không bao giờ ngừng nghỉ. Vì thế, các nhà làm Dịch mới gọi tác phẩm của mình là “Kinh Dịch”. . Ở “Kinh Dịch”, âm dương được quan nệm là những mặt, những hiện tượng đối lập. Như trong tự nhiên: sáng – tối, trời – đất, đông – tây . Trong xã hội: quân tử – tiểu nhân, chồng – vợ, vua – tôi… Qua các hiện tượng tự nhiên, xã hội, các tác giả trong “Kinh Dịch” đã bước đầu phát hiện được những mặt đối lập tồn tại trong các hiện tượng đó và khẳng định vật nào cũng ôm chứa âm dương trong nó: “vật vật hữu nhất thái cực” (vạn vật, vật nào cũng có một thái cực, thái cực là ầm- dương). Nhìn chung, toàn bộ “Kinh dịch” đều lấy âm dương làm nền tảng cho học thuyết của mình. . Vấn đề âm dương trong trời đất, trong vạn vật liên quan tới sự sống con người được bàn nhiều nhất trong nội dung trao đổi y học, y thuật giữa Hoàng đế và KỳBá qua tác phẩm “Hoàng đế Nội kinh”. Tác phẩm này lấy âm dương để xem xét nguồn gốc của các tật bệnh. “Âm dương, đó là cái đạo của trời đất, kỷ cương của vạn vật, cha mẹ của sự biến hóa, gốc ngọn của sự sinh sát, phủ tạng của thần minh, trị bệnh phải cần ở gốc, cho nên tích luỹ dương làm trời, tích lũy âm làm đất, âm tĩnh đương động, dương sinh âm trưởng,

b. Tính Sinh khắc của Ngũ Hành .

1.Thuyết Ngũ hành có từ bao giờ?

Nhận thức cơ bản về vật chất trong thời Trung Quốc cổ đại chính là “thuyết Ngũ hành”. Người Trung Quốc thuở ấy phát hiện rằng Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, và Thổ cấu thành nên tất cả các vật chất trong vũ trụ này. Nhận thức này về vật chất thực ra bắt đầu từ khi nào? Không có sử sách nào có thể trả lời được câu hỏi này vì thuyết Ngũ hành dường như đồng thời tồn tại với văn hóa Trung Hoa. Thậm chí có thể nói nó là một trong các nền tảng của văn hóa Trung Hoa trong một thời kỳ lịch sử lâu dài. Theo cuốn Thượng Thư chương “Hồng Phạm”, Ngũ hành chính là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Thượng Thư còn gọi là Thư Kinh, hay Sử Thư. Nó là một trong sáu cuốn cổ thư do Khổng Tử biên soạn và bình chú. Nó là tuyển tập văn hiến chính trị của Trung Quốc từ triều đại Hòang Đế (một vị vua huyền thoại trị vì Trung Quốc nguyên thủy) cách đây khoảng 5000 năm. Nói cách khác, người Trung Quốc đã phát triển nhận thức về Ngũ hành thậm chí còn trước cả sự hình thành chữ Hán. Có cả bằng chứng về kiến thức Ngũ hành trong cuốn Quốc Ngữ, từ triều nhà Châu(Chu): “Sự kết hợp của Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ cấu thành nên vạn vật trên thế gian.” Những ghi chép này chứng tỏ thuyết Ngũ hành là nền tảng của khoa học Trung Quốc cổ đại, tương tự như học thuyết cho rằng nguyên tử và phân tử là nền tảng của những phát minh khoa học hiện đại về vũ trụ và vật chất. Thậm chí người Trung Quốc xưa còn có cả những nhận thức về vật chất vi tế hơn cả Ngũ hành: “thuyết Âm Dương”. Khổng Tử giảng rằng: “Nhất Âm, nhất Dương là Đạo” (chương “Hệ Từ Truyện”, Chuyển Thư Kinh). Ông cũng nói: “Cương, Nhu tương tác thì sẽ tạo nên thay đổi.” Lão Tử nói: “Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh vạn vật. Vạn vật cõng Âm ôm Dương” (chương 42, Đạo Đức Kinh). Những lời này rõ ràng thuộc phạm trù vật lý cao năng lượng hiện đại. Lão Tử không chỉ bàn về các lạp tử cơ bản vi quan, mà còn giảng về nguyên lý cấu thành nên vật chất. Do đó, vạn sự vạn vật do Ngũ hành tạo nên đều có cả đặc tính Âm và Dương và cả Ngũ hành. Các đặc điểm khác nhau của vật chất được mô tả trong chương “Hồng Phạm” của cuốn Sử Thư: “Thủy tương ứng với ẩm và hướng xuống Hỏa tương ứng với nóng và hướng lên. Mộc tương ứng với uyển chuyển hoặc thẳng thắn. Kim bị biến dạng trong lửa. Thổ cần thiết cho cấy hái. Nước trở nên mặn khi chảy xuống. Hỏa trở nên nóng hơn khi bốc lên trên. Mộc có thể trở nên chua khi thay đổi hình dạng. Kim trở thành cay khi không ổn định. Thổ có thể thành ngọt khi dùng trong cấy hái.” Do các đặc tính tự nhiên ấy, Ngũ hành tương sinh và tương khắc với nhau ở mức hồng quan (vĩ mô).

2. Quy luật sinh khắc của Ngũ hành :

Quy luật tương khắc “Thủy khắc Hỏa. Hỏa khắc Kim. Kim khắc Mộc. Mộc khắc Thổ. Thổ khắc Thủy”. Quy luật tương sinh của Ngũ hành như sau: “Mộc sinh Hỏa. Hỏa sinh Thổ. Thổ sinh Kim. Kim sinh Thủy. Thủy sinh Mộc.” Đó là tóm tắt thuyết tương sinh tương khắc của Ngũ hành. Tri thức khoa học độc đáo trong thời Trung Quốc cổ đại, từ thiên văn học, địa lý học, lịch học, vật lý học, y học, dược học cho tới hóa học, đều xuất phát từ thuyết Ngũ hành và thuyết Âm Dương. Những học thuyết này thậm chí đã có ảnh hưởng tới sự phát triển của âm nhạc, kiến trúc, nghệ thuật, và văn hóa Trung Hoa.

2.2. Tính Hệ số của vũ trụ 1:1 a Mỗi người sinh ra trên thế gian này đều mang hai phần chính Âm Dương. Thông qua quy luật biến đổi âm dương trong tự nhiên mà cố thể suy diễn, phân tích luật âm dương trong cơ thể con người. -Vũ trụ này là song hành giữa thế giới người Trời và thế giới người Trần. Loài người qua nhiều ngàn năm đi tìm mối quan hệ giữa 2 thế giới này, nhưng nhận thức còn ít lắm. Người xưa thấy điều này nhiều hơn, nhưng do không tin vào khoa học này nên khoa học kỹ thuật loài người càng phát triển thì tri thức về mặt này càng vơi đi, thất truyền dần.Theo các tôn giáo từ mấy nghìn năm qua đã thống nhất người trần: - Người Trần gồm một thân xác và một Linh hồn hay một Người Trời. Cái thân xác là do cha mẹ sinh ra là một cái áo cho linh hồn trú ngụ một vòng đời . Còn cái Linh hồn chính là một người Trời đầu thai kiếp khác về nhập vào từ khi ta còn là bào thai trong bụng mẹ. Phải có cái thân xác mới đủ nặng để trụ ở cõi Trần mà thành người Trần được. Vì có thân xác nên mới phân ra có nam có nữ. Cái Linh hồn thì trước khi đầu thai về cõi Trần đều bị xóa hết ấn tượng của kiếp trước và không hề hay biết mình là ai. Người Trần vì có cái thân xác mà phải ăn để nạp năng lượng mới sống được. Vì miếng ăn mà ganh tị ghen ghét nhau, tranh giành nhau, giết hại nhau. Đó là cái tệ của người Trần. Cũng vì cái thân xác có khối lượng, trọng lượng nên nặng nề mà vận động khó khăn. Người chạy được 40km/h là giỏi lắm rồi. Bình thường đi bộ chỉ được 5-6 km/h thôi.

b. Người Trần = Thân xác trần + Người Trời (Linh Hồn).

Đây là điều cốt lõi mọi người phải nhận thức cho được, phải tin cho bằng được. Các bài viết trong tài liệu này đang giúp bạn để có đức tin này. Thiếu đức tin vào cái này thì là bạn hỏng tận gốc nhận thức cuộc sống. Vì vậy trong Kinh, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới giảng rằng: “ Duy ngã độc tôn”, nghĩa là cái Chân ngã là người Trời đang có trong ta, là tối quan trọng. (Ta là trong mỗi con người) .Phần người Trời trong mỗi người là Linh hồn là thanh nhẹ người thường không nhì thấy được .Hồn mang tính Dương Mỗi người chỉ có ba hồn trú trong các ống siêu nhỏ trong hốc não . Hồn nặng 21 gam ,Hồn điều khiển não hoạt động . Khi có hồn ở trong não người thì người đó sống ở cõi Trần , Khi hồn xuất ra ngoài xác thì não chết ,người đó không có hồn sẽ chết . Cái áo là xác than đó bị bỏ lại . Ba hồn thăng lên lại về trời tu luyện và chờ đầu thai vào một bào thai khác gọi là kiếp sau …. Vía là lớp khí năng hơn bao quanh xác than để bảo vệ thân đó là hào quang trên cơ thể .chống lại tác động của môi trường xung quanh thân xác .Vía mang tính Âm giống hình người có dủ các giác quan như người Vía bao quanh xác ,độ dày từ 0,3- 0,5 m tùy theo từng nguời , Khi hồn thăng về trời , vía xuất ra nhưng vẫn ở quanh nhà sau khi chôn cất thì vía theo xác ra mả nhiều người nhìn thấy vía gọi là thấy ma .

c. Tuổi thọ người Trần

Người Trần ở đây chỉ tính ở Trái đất này thôi, với con số tổng hiện nay là khoảng 7,8 tỷ người. (Còn 4 hành tinh khác trong vũ trụ cũng có người Trần thì chưa nói ở đây). Tuổi thọ người Trần xưa nay ta quan niện là tuổi thọ của cái thân xác mà ta mượn ở kiếp đời này. Tuổi thọ này có độ dài thời gian từ 0 đến trên 100 năm cõi Trần hoặc hơn một chút. Một người có thể sinh ra đã chết hoặc thọ trên 100 tuổi mới chết. Nhưng không có ai là không chết. Tuổi thọ của người Trần được tính theo thời gian năm tháng cõi Trần. Một năm có 12 tháng, một tháng có 30 ngày. Người xưa để lại Bảng tính 60 Hoa Giáp, từ năm Giáp Tý đến năm Quý Hợi, tính tuổi thọ của người Trần bình quân 60 năm là rất có cơ sở. Trong đó phân ra 20 năm đầu lớn lên ăn học thành người, 20 năm tiếp làm việc và phát triển khả năng và trí tuệ, 20 năm cuối về già yếu dần rồi chết. Như vậy là đúng với quy luật Sinh Vượng Tử Mộ nêu trên. Ngày nay ta quan niệm, nhờ tiến bộ kỹ thuật cao mà loài người Trần nay có tuổi thọ cao hơn 60, nhiều người sống trên 70- 80, thậm chí trên 90 tuổi. Hiện thực có số người như vậy, nhưng chưa chắc tuổi thọ bình quân của loài người đã là trên 60. Nếu ta thống kê được hết thì có lẽ số tuổi thọ bình quân cũng chỉ loanh quanh con số 60 năm thôi. Đồng ý khoa học ngày nay nâng được tuổi cao cho nhiều người, nhưng có khi lại làm cho nhiều người bị chết trẻ. Càng phát triển khoa học, loài người càng tàn phá môi trường sống, chiến tranh càng hủy diệt hơn, càng làm nhiều người chết trẻ... nên càng kéo tuổi thọ bình quân xuống dưới 60. (GS. Nguyễn Tiến Đích )

d. Vận tốc di chuyển của hồn


Linh hồn ở các cung của Hình 1

Tốc độ km/s

So với tốc độ ánh sáng (300.000km/s)


Đế (Người Trời)

1750 Km/s

0,0059


Thần linh

2660 km/s

0,0087


Tiên thánh

4660 km/s

0,015


Cao tăng

11.660-

0,039


Kim cương Bồ tát

26.660-

0.087


La Hán

366.660-

1,22


Phật (không danh tính)

866.660

2,82


Thượng Phật

1.266.660

4,22


Khi ta ngủ Linh hồn xuất ra đi khắp thế giới chỉ vài phút đến 30 phút sau đó hồn lại nhập vao xác

2.3. Tính đòn bẩy của Vũ Trụ

a. Quy Luật Về Nhân Quả..!

Vũ trụ, vạn vật không phải tuần hành, biến dịch một cách tự nhiên, vô lý, mà tuân theo một cái luật chung. luật đó là luật nhân quả, vũ trụ đều theo quy luật đó mà điều hành vũ trụ, mà đó cũng là một lụật tự nhiên của thiên nhiên âm thầm, lặng lẽ, nhưng đúng đẵn vô cùng.

Người đời vì không quan sát một cách kỹ càng, tường tân nên không thấy được luật ấy. Do đó, họ đã hành động một cách bừu bãi, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với bản thân mình và với người chung quanh. Và cùng chính vì thế mà họ đau khổ, lặn hụp mãi trong biển mê mờ, tội lỗi.

Trái lại, Ðức Phật là vị hoàn toàn giác ngộ, đã phát hiện ra cái luật nhân quả đang chi phối, điều hành mọi sự vật trong vũ trụ nầy, nên Ngài đã hành động một cách sáng suốt, lời lạc cho chính mình và chúng sanh.
Vậy chúng ta cần phải hiểu biết cái luật nhân quả mà từ đó phát huy nó như thế nào, để rồi hành động đúng theo như lời Ngài đã làm, hầu đem lại hạnh phúc chân thật, lâu bền cho mình và cho người chung quanh.
b. Ðịnh Nghĩa:

“Nhân” là nguyên nhân, “Quả” là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, Quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và Quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả; nếu không có Quả thì không có Nhân.



c. Những Ðặc Tính Của Luât Nhân Quả

1.Nhân thế nào thì quả thế ấy: Nếu ta muốn có quả cam thì ta phải ươm hạt giống cam; nếu ta muốn có hạt đậu thì ta phải gieo giống đậu. Không bao giờ ta trồng cam mà lại được đậu, hay trồng đậu mà lại được cam. Người học đàn thì biết đàn, người học chữ thì biết chữ. nói một cách khác, nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau. Hễ nhân đổi thì quả cũng đổi.
2. Một nhân không thể sanh ra quả: Sự vật trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một nhân nào, có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói một cách giản dị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra gì được cả, nếu để một mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng đất nước, nhân công.
Cho nên, khi ta nghe bất cứ ai tuyên bố rằng: mọi vật do một nhân sinh ra, hay một nhân có thể sanh ra vạn vật; ta có thể chắc chắn rằng, người ấy nói sai sự thật.

3. Trong nhân có quả, trong quả có nhân: Chính trong nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong cái quả hiện tại, đã có hình bóng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra cái quả mà ta mong muốn, chờ đợi. Một sự vật ta gọi là quả, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra trạng thái mà ta mong đợi ước muốn. Mỗi vật, đều có thể gọi là nhân hay quả được: đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương thì nó là nhân. Nhân và qủa tiếp nối nhau, đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền.

d. Sự phát triển nhanh và chậm từ nhân đến quả:

1. Từ nhân đến quả có thể nhanh hay chậm .

Sự biến chuyển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao giờ cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất:

Có những nhân và xảy ra kế tiếp nhau, liền nhau, nhân vừa phát khởi thì quả đã xuất hiện, như khi vừa đánh xuống mặt trống (nhân) thì tiếng trống liền phát hiện ra (quả); hay khi hai luồng điện âm và dương vừa gặp nhau, thì ánh sáng liền bừng lên. Có khi nhân đã gây rồi, nhưng quả đợi một thời gian, quả mới hình thành, như từ khi gieo hạt giống, cho đến khi gặt lúa, cần phải có một thời gian ít nhất là bốn tháng. Có khi từ nhân đến quả cách nhau từng chục năm, như đứa trẻ mới cắp sách đi học đến ngày thành tài, phải qua một thời gian ít nhất là mười năm. Có khi cần đến một vài trăm năm, hay nhiều hơn nữa quả mới xuất hiện. Chẳng hạn như từ ý niệm giành độc lập của một quốc gia, đến khi thực hiện được nền độc lập ấy, cần phải qua bao thế kỷ.
Vì lý do mau chậm, trong sự phát hiện cái quả, chúng ta không nên nóng nẩy hấp tấp, mà cho rằng cái luật nhơn quả không hoàn toàn đúng, khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả.

2. Phân Tích Hành Tướng Của Nhân Quả Trong Thực Tế.

Như các đoạn trên đã nói, nhân quả chi phối tất cả vũ trụ vạn hữu, không có một vật gì, sự gì, động vật hay thực vật, vật chất hay tinh thần, thóat ra ngoài luật nhân quả được. Ở đây, để có một quan niệm rõ ràng hơn về luật nhân quả, chúng ta hãy tùan tự phân tích hành tướng của nhân quả trong mọi sự vật:

*. Nhân quả có trong những vật vô tri vô giác:

Nước bị lửa đốt thì nóng, bị gió thổi thì thành sóng, bị lạnh thì đông lại. Nắng lâu ngàỳ thì đại hạn, mưa nhiều thì lụt, gió nhiều thì sanh bão.
*. Nhân quả trong loài thực vật:

Hạt cam thì sanh ra cây cam, cây cam thì sanh trái cam. Hạt ớt thì sanh ra cây ớt, cây ớt thì sanh ra trái ớt. Nói một cách tổng quát, giống ngọt thì sanh trái ngọt, giống chua thì sanh trái chua, giống nào thì sanh quả ấy.
*. Nhân quả trong các loài động vật:

Loài chim sanh ra trứng, nên chúng ta gọi trứng là nhân, chờ khi ấp nở thành con là quả; con chim ấy trở lại làm nhân, sinh ra trứng là quả. Loài thú sanh con, con ấy là quả. Con thú lớn lên, trở lại làm nhân sanh con là quả.



2.4. NHÂN QUẢ NƠI CON NGƯỜI .

a. Nhân quả nơi con người: Về phương diện thể chất:

Thân tứ đại của mỗi người là do tinh của cha thụ huyết của cha mẹ mà sinh ra và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả, và cứ tiếp nối như thế mãi, nhân sanh quả, quả sanh nhân, không bao giờ dứt.

b. Nhân quả nơi con người: Về phương diện tinh thần:

Những tư tưởng và hành vi trong các kiếp quá khứ, tạo cho ta những tánh tình tốt hay xấu, một nếp sống trong hiện tại: Tư tưởng và hành động quá khứ là nhân, tánh tình nếp sống tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh tình và nếp sống này là nhân, để tạo ra những tư tưởng và hành động trong tương lai là quả. Ðể nhận rõ cái phần tinh thần quan trọng nầy, chúng ta hãy dành riêng ra một mục, để đặt biệt chú ý đến hành tướng của nó dưới đây.

Nhân quả của tư tưởng và hành vi không tốt:

Tham: Thấy tiền của người, nổi lòng tham lam sanh ra trộm cắp, hoặc giết hại người là nhân; bị chủ đánh đập hoặc đâm chém, phải tàn tật, hay bị nhà chức trách bắt giam trong khám đường, chịu những điều tra tấn, đau khổ là quả.

Sân: Người quá nóng giận, đánh dập vợ con, phá hoại nhà cửa, chém giết người không gớm tay là nhân; khi hết giận đau đớn, nhìn thấy vợ con bịnh hoạn, nhà cửa tiêu tan, luật pháp trừng trị, phải chịu nhiều điều khổ cực là quả.

Si mê: Người say mê sắc dục, liễu ngõ hoa tường, không có biết sự hay dở, phải trái là nhân; làm cho gia đình lủng củng, thân thể suy nhược, trí tuệ u ám là quả.

Nghi ngờ: Suốt đời cứ nghi ngờ việc nầy việc khác, ai nói gì cũng không tin, ai làm gì cũng không theo, đó là nhân; kết cuộc không làm nên được việc gì cả, đến khi lâm chung, buông xuôi hai bàn tay trắng đó là quả.
Kiêu mạn: Tự cho mình là hơn cả, khinh bỉ mọi người, chà đạp lên nhân phẩm người chung quanh, là nhân; bị người ghét bỏ, xa lánh, sống một đời lẻ loi, cô độc là quả. Nghiện rượu, cờ bạc: Chung quanh tiền bạc ăn nhậu cho thỏa thuê là nhơn; đến lúc say sưa chén bát ngổn ngang, ghế bàn nghiêng ngả nhiều khi gây ra chém giết nhau làm những điều tội lỗi, phải bị phạt vạ và tù tội là quả.
Say mê cờ bạc: Thấy tiền bạc của người muốn hốt về mình, đắm đuối quanh năm, suốt tháng t heo con bài lá bạc, là nhân; đến lúc của hết nhà tiêu, nợ nần vây kéo, thiếu trước hụt sau, thâm quỹ thụt két là quả.
Nhân quả của tư tưởng và hành vi tốt:

Như trên chúng ta đã thấy, những tư tưởng hành vi xấu xa tạo cho con người những hậu quả đen tối, nhục nhã, khổ đau như thế nào, thì những tư tưởng và hành vi đẹp đẽ tạo cho con người những hậu quả sáng lạng, vinh quanh và an vui như thế ấy.

- Người không có tánh tham bỏn sen, thì tất không bị của tiền trói buộc, tâm trí được thảnh thơi. Người không nóng giận, tất được sống cảnh hiền hòa, gia đình êm ấm; Người không si mê theo sắc dục, thì tất được gia đình kính nể, trí huệ sáng suốt, thân thể tráng kiện; người không hay ngờ vực, có đức tin, thì hăng hái trong công việc, được người chung quanh tin cậy, dễ thành tựu trong đời

- Người không ngạo mạn thì được bạn bè quí chuộng, niềm nở đón tiếp, tận tâm giúp đỡ khi mình gặp tai biến. Người không rượu chè, cờ bạc thì không đến nỗi túng thiếu, bà con quan biết kình nể, yêu vì…Những điều nầy, tưởng không cần phải nói nhiều, quí đọc giả cũng chán biết. Hàng ngày quanh chúng ta, những cảnh tượng nhân và quả ấy, diễn ta không ngớt, chỉ cần giở tờ báo hàng ngày, đọc các mục tin tức là thấy ngay.
Nói một cách tổng quát, về phương diện tinh thần cũng như về vật chất, người ta gieo thứ gì, thì gặp thứ ấy. Người Pháp có câu: Mỗi người là con đẻ của công nghiệp mình.

d. Lợi Ích Ðem Lại Cho Chúng Ta.

Sự Hiểu Biết và Áp Dụng Luật Nhân Quả.

- Luật nhân quả tránh cho ta những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào thần quyền: Luật nhân quả cho chúng ta thấy được thực trạng của sự vật, không có gì mơ hồ, bí hiểm. Nó vén tất cả những cái gì đen tối, phĩnh phờ của mê tín dị đoan, đang bao trùm sự vật. Nó cũng phủ nhận luôn cái thuyết chủ trương Ộ Vạn vật do một vị thần sinh ra, và uy quyền thưởng phạt muôn loài Ợ. Do đó, người hiểu rõ luật nhân quả sẽ không đặt sai lòng tin tưởng của mình, không cầu xin một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ hoang mang.

- Luật nhân quả đem lại lòng tin tưởng vào chính con người:

Khi đã biết cuộc đời của mình do nghiệp nhân của mình tạo ra, mình là người thợ tự xây dựng đời mình, mình là kẻ sáng tạo, mà không tin tưởng ở mình thì còn tin tưởng ở ai nữa? Lòng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng qúy báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh hăng hái làm điều tốt. Vì những hành động tốt đẹp ấy, họ biết sẽ là những cái nhân quý báu, đem lại những kết quả đẹp đẽ. c. Luật nhân quả làm cho chúng ta không chán nản, không trách móc:
Người hay chán nản, hay trách móc là vì đã có thói quen ỷ lại ở kẻ khác, là vì hướng ngoại. Nhưng khi đã biết mình là động lực chính, là nguyên nhân chính của mọi sự thất bại hay thành công, thì còn chán nản trách móc ai nữa? Ðã biết mình là quan trọng như thế, là chỉ còn lo tự sửa mình, thôi gieo nhân xấu, để khỏi phải gặt quả xấu, tránh tạo giống ác để khỏi mang cái ác.

đ. Kết luận

1.Nhân quả nhanh hay chậm.

-Có người nghĩ rằng: Nhân quả là một luật tự nhiên rất đúng đắn công bằng, sao có người cả đời hiền từ mà lại gặp lắm tai nạn khổ sở; trái lại, những người hung ác, sao lại vẫn được an bình ?
- Ðáp: Những đọan trên đã nói, thời gian tiến triển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải khi nào cũng đồng nhau. Có cái nhân từ đời nay, đến đời sau mới hình thành quả v.v…
- Vậy nếu có người trong đời hiện tại làm việc hung ác, mà được an lành, là do kiếp trước họ tạo nhơn hiền từ. Còn cái nhơn hung ác, mới tạo trong đời nay, thì tương lai hay qua đời sau, họ sẽ chịu quả báo. Cũng như có người năm nay ăn chơi, không làm gì hết, mà vẫn no đủ, là nhờ năm rồi họ có làm, có tiền của để dành vậy. Còn cái nhân ăn chơi không làm năm nay, thì sang năm họ sẽ chịu quả đói rách.
- Còn người đời nay hiền từ, làm các điều phước thiện, mà vẫn gặp tai nạn, khổ sở, là do đời trước, họ tạo những nhơn không tốt. Cái nhơn hiền từ đời nay, qua đời sau họ sẽ hưởng quả vui. Cũng như có người tuy năm nay siêng năng làm ruộng, mà vẫn thiếu hụt, là vì nhân ăn chơi năm vừa rồi. Cái nhân siêng năng năm nay, sang năm sau họ sẽ hưởng quả sung túc. Do đó, Cổ nhân có nói:
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, Chỉ danh lai tảo dữ lai trì (Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi)

2.Áp dụng luật nhân quả cho công việc hàng ngày:

Chúng ta đã biết giá trị của luật nhân quả, vậy chúng ta nên đem bài học nầy ra áp dụng vào mọi công việc hằng ngày của chúng ta. Khi chúng ta làm một việc gì, nói một lời gì, cũng nên nghĩ trước kết quả tốt hay xấu của nó, chứ đừng làm liều, nói liều, rồi phải chịu hậu quả đau khổ, nhục nhã trong tương lai. Nếu chúng ta làm được như thế, thì chúng ta sẽ thấy tánh tình và hành vi của chúng ta, mỗi ngày mỗi cải tiến, các việc sai quấy sẽ giảm bớt, các việc lành càng thêm tăng trưởng. Và do sự gieo nhân toàn thiện đó, từ địa vị người, chúng ta có thể tiến dần lên đến quả vị thánh hiền, siêu nhân



III. TOÀN CẢNH LẼ SỐNG CỦA NHÂN LOẠI TRONG MỌI THỜI ĐẠI .
Xã hội nhìn nhận đánh giá về con người theo những tiêu chí nào? Để là một người hoàn chỉnh cần xem xét một số góc độ sau.
3.1. Đánh giá một đời người, không tính bằng lượng thời gian sống để .
Trong cuộc sống, ai cũng mong tồn tại được lâu trên trần gian này. Gặp nhau chúc nhau, trong dịp Tết ai cũng không quên câu "chúc sống lâu trăm tuổi". Ngành y tế và các cơ quan có liên quan đến chăm sóc cuộc sống của con người đều có ý thức, có kế hoạch làm sao cho sức khỏe của con người ngày càng tăng tiến, tuổi thọ được nâng cao. Đó là mong muốn của mọi người và cũng là mục tiêu của chế độ chúng ta, của thời đại chúng ta. Nhà văn I. Cuôcxơ đã viết Người nào có thể làm mỗi giây phút đều tràn ngập một nội dung sâu sắc thì người đó sẽ kéo dài vô tận cuộc đời mình. Đánh giá một đời người thì không bao giờ người ta căn cứ vào tuổi thọ, căn cứ vào lượng thời gian sống mà chủ yếu căn cứ vào thực tế người đó đã sống như thế nào. Cuộc đời Trần của bất kỳ ai cũng chỉ sống có một lần và nó cũng trôi qua rất nhanh chóng kể cả người thọ nhất. Do đó phải sống như thế nào để thực sự có ích cho đời, cho xã hội. Có những người sống không được lâu nhưng để lại cho đời rất nhiều giá trị quý báu; tên tuổi của họ được lưu mãi đến bao đời sau. Song cũng có không ít người thời gian sống rất dài nhưng những ngày sống cho thật có ý nghĩa thì chẳng bao nhiêu. Rõ ràng cách sống, chất lượng sống mới thực sự là tiêu chí, mới là căn cứ để đánh giá một đời người.
3.2. Lãng phí thời gian là mất tuyệt đối .
Mất tiền có thể kiếm lại được tiền, mất xe có thể sắm lại được xe nhưng mất thời gian thì chịu, đố ai có thể tìm lại được. Lãng phí thời gian là mất tuyệt đối. Thời gian là một dòng chảy thẳng; không bao giờ dừng lại và cũng không bao giờ quay lui. Mọi cơ hội, nếu bỏ qua là mất. Tuổi trẻ mà không làm được gì cho đời cho bản thân thì nó vẫn xồng xộc đến với tuổi già. Thời gian là một dòng chảy đều đặn, lạnh lùng, chẳng bao giờ chờ đợi sự chậm trễ. Hãy quý trọng thời gian, nhất là trong thời đại trí tuệ này; nền kinh tế trí thức đã và đang làm cho thời gian trở nên vô giá. Chưa đầy một giờ, công nghệ Nhật Bản đã có thể sản xuất một tấn thép, con tàu tốc hành của các nước phát triển, trong vài giờ, đã có thể vượt qua được vài ngàn kilômét. Mọi biểu hiện đủng đỉnh rềnh ràng đều trở nên lạc lõng trong xu thế toàn cầu hiện nay. Giải trí là cần thiết nhưng chơi bời quá mức, để thời gian trôi qua vô vị là có tội với đời, với tương lai đất nước.
3.3. Phong cách sống có khi không tương ứng với học vấn.
Thông thường phong cách sống tương ứng với trình độ học vấn. Ít thấy trường hợp người có trình độ văn hóa cao mà lại sống theo một phong cách thấp hèn hoặc ngược lại. Song trên thực tế, cũng có không ít nghịch lý diễn ra. Người có trình độ văn hóa cao, thậm chí là giáo sư tiến sĩ nhưng trong cuộc sống lại có những biểu hiện quá tồi tệ, làm cho nhiều người kinh ngạc. Ở một số cơ quan , có người đường đường là một lãnh dạo chủ chốt có học hàm học vị cao nhất cơ quan nhưng chẳng có chút uy tín nào chỉ vì trong cuộc sống người lãnh đạo đó có quá nhiều lệch lạc, nhỏ nhen, tầm thường. Trước đông người, anh hay vỗ ngực ta đây đã từng bảo vệ xuất sắc luận án này luận án nọ, khi tranh cãi với ai, anh thường dùng những từ ngu dốt, văn hóa ngắn, trình độ lùn, cái đầu củ đậu để miệt thị người có ý kiến trái ngược mình, ăn uống thì nhồm nhoàm trông đến bệ rạc. Một con người có địa vị, học hàm, học vị như thế mà khi tiếp khách quan trọng, không dám mời anh ta tham dự. Điều đó cho thấy rõ rằng, phong cách sống của con người không chỉ phụ thuộc vào trình độ hiểu biết mà còn chịu ảnh hưởng không ít đến ý thức tu tỉnh đạo đức, tác phong, thái độ. Muốn có một phẩm chất cao đẹp đòi hỏi con người phải phấn đấu toàn diện. Có học vấn cao mà đạo đức yếu kém, tác phong thái độ lệch lạc thì uy tín cũng không thể cao được.
3.4. Mặc đẹp chưa hẳn thành người tử tế.
Có những hình thức thể hiện nội dung, nhưng cũng có hình thức độc lập, thậm chí trái ngược hẳn với nội dung. Cuộc sống đa dạng là thế. Một con người nói năng trôi chảy gọn gàng thường chứa đựng một tư duy chặt chẽ, sâu sắc. Song cũng không phải một hình thức diễn đạt nào cũng đi kèm với một nội dung tương ứng. Một con người ăn mặc đẹp, sang trọng có khi là con người đứng đắn, tử tế. Nhưng cũng có người bề ngoài thì tuyệt diệu nhưng phẩm chất thì tầm thường thậm chí tồi tệ. Ông bà A có đứa con hư hỏng; đã bước vào tuổi trưởng thành mà nói năng xấc xược, tục tĩu, hay đánh mắng trẻ con, trêu ghẹo phụ nữ, chơi bời trác táng. Ông bà A thật là khổ sở, buồn bã mỗi khi họp tổ dân phố, nghe người ta nhận xét về con mình. Một dịp, nhân thị trấn tổ chức lễ hội, bà A nảy sáng kiến, mua cho đứa con một bộ comple, một cái cà vạt với hy vọng ăn mặc đẹp đẽ, lịch sự như vậy mọi người sẽ nhìn nhận khác, đứa con sẽ trở nên đứng đắn, nghiêm túc hơn chăng. Nhưng chẳng ngờ, cậu ta vẫn chứng nào tật ấy. Bộ comple sang trọng kia càng làm cho hình ảnh cậu ta thêm kệch cỡm. Rõ ràng không thể lấy hình thức mà che đậy nội dung, không thể lấy bề ngoài mà đánh lừa được thiên hạ, mà cải tạo được cái bên trong rỗng tuếch, thối nát. Vấn đề là phải tìm đúng nguyên nhân đích thực rồi tìm cách xóa bỏ nó mới mong kiểm soát được kết quả cuối cùng.
3.5. Lẽ đời là biết nghe phải, nói phải, làm phải .
Trong cuộc sống ngày nay, với một nền dân chủ đang được mở rộng, nền kinh tế thị trường đang được phát triển, với một lượn thông tin ngày càng lớn đang được bùng ra, con người thực sự luôn luôn gặp thử thách. Con người phải có đôi tai biết sàng lọc để tìm ra những điều đúng, hay, bổ ích mà ghi nhận, học tập và làm theo. Con người cũng phải biết nói những điều cần nói, nói đúng lúc, đúng chỗ những điều thích hợp, nói theo lẽ phải, hợp với đạo lý, lương tri con người, hợp với xu thế thời đại. Con người phải biết hành động đúng, giúp cho sự bảo vệ chân lý, phải biết hành động có hiệu quả công việc được phân công, nghề nghiệp mình đang theo đuổi để giúp cho sự phát triển của xã hội. Câu thành ngữ phương Đông "lẽ đời là biết nghe phải, nói phải, làm phải" đã thực sự giúp ta củng cố lòng tin vào lý tưởng sống của con người mới, giúp ta xây dựng một cách sống thích hợp với yêu cầu thời đại. Trên thực tế, số người nghe quá nhiều những điều sai, vô bổ, nói lung tung, thiếu trách nhiệm và hành động trái với lương tâm và pháp luật không phải ít. Rõ ràng họ cần phải được giáo dục và tự giáo dục tích cực.

3.6. Ai cũng có một vầng trăng và một đám mây đen
Khó có thể nói có ai đó là hoàn hảo, mặt nào cũng tốt, khi nào cũng tốt và ai đó là hoàn toàn ngược lại, không có gì đáng giá cả, cuộc đời họ là một màu đen tuyền. Ngay cả người được coi là xấu nhất, nếu chịu khó nhìn kỹ, theo dõi kỹ, ta vẫn cảm nhận được không ít điều hay lẽ phải với những nét hấp dẫn mà chưa chắc người bình thường đã có. Còn người tốt thì cũng đừng có nghĩ rằng không có lúc nào họ xấu hoặc có những mặt những tính chất khác người khó chịu, làm nhiều người phiền muộn.
Vấn đề ta thường thấy ở đây là có người tốt nhiều, người tốt ít, người xấu nhiều, người xấu ít hoặc người này bản chất là tốt hay người kia bản chất là xấu. Nhà văn hóa M. Twain (Mỹ) có dùng một hình ảnh khá chí lý: "Ai cũng có một vầng trăng và một đám mây đen". Câu nói đó có ý nghĩa tích cực là khuyên răn con người hãy luôn làm cho ánh hào quang của vầng trăng thêm rực rỡ và xóa dần màu xám xịt của đám mây đen. Người tốt cũng đừng chủ quan là mình sẽ không biến chất và người xấu cũng không phải không giáo dục được, không tự tu dưỡng điều chỉnh mình được. Đời người là một sự phấn đấu không ngừng, một sự điều chỉnh bổ sung liên tục.
3.7. Biết sửa lỗi là hứa hẹn thành công
Trên đời này không phải ai cũng dễ dàng nhận ra lỗi lầm của mình hoặc có khi thấy mà không dám khẳng định, không dám công khai tự phê bình. Lại có trường hợp thấy khuyết điểm, nhận khuyết điểm nhưng lại không sửa chữa hoặc không tích cực, quyết tâm sửa chữa.
Sự đời cũng lắm điều oái oăm. Có những khuyết điểm, nếu xóa bỏ được thì chỉ có lợi cho mình một cách chính đáng, tất nhiên cũng có lợi cho đời. Song có khuyết điểm lại gắn chặt với quyền lợi ích kỷ của chủ nhân nó. Ví dụ những khuyết điểm thuộc loại lợi dụng địa vị, uy tín, quyền lực để tạo điều kiện, để bảo vệ, để tranh giành cái gì đó bất chính cho con cháu, cho người thân, hoặc những khuyết điểm thuộc loại vơ vét tham nhũng, thuộc loại nịnh bợ tranh thủ cảm tình cá nhân của cấp trên để duy trì cái ghế của mình, để chuyển dịch lên ghế cao hơn... thì thường rất khó sửa chữa; đa số người chỉ giảm bớt mức độ hoặc tìm hình thức thực hiện khôn khéo hơn, bí mật hơn mà thôi. Do vậy mà ta có thể khẳng định ai đã thực sự sửa chữa lỗi lầm là đã thắng thực sự kẻ thù của chính mình - một sức mạnh phản diện luôn luôn ẩn dấu trong tim óc của mỗi chúng ta. Thực sự sửa chữa khuyết điểm là xóa bỏ nguyên nhân của thất bại, là xác định được động cơ đúng đắn cho những công việc sắp tới, cho những hành động thường ngày. Điều đó sẽ hứa hẹn cho sự xuất hiện hết thành công này đến thành công khác một cách vững chắc. Nhiều lúc kẻ thù là chính mình Xin hiểu kẻ thù ở đây là theo nghĩa rộng, là nguyên nhân của những hiện tượng không tốt. Ta thường mất nhiều thì giờ, tiền bạc và công sức đi tìm nguyên nhân của những hiện tượng không tốt. Ta thường mất nhiều thì giờ, tièn bạc và công sức đi tìm nguyên nhân tận đâu đâu, những nguyên nhân khách quan, những nguyên nhân có ý nghĩa biện minh rằng: mình không tự gây ra khuyết điểm đó, sai lầm đó, tội lỗi đó. Hướng suy nghĩ đó, phương pháp tư tưởng đó đã đánh lừa mọi người và ru ngủ mình, làm cho mọi lệch lạc, sai phạm cứ thế trượt dài, trượt dài. Con người ta, ai cũng có một góc tối trong tâm hồn; vấn đề là góc tối đó rộng hay hẹp, chủ nhân nó có nhận ra được hình thù của nó, có biết cách kiềm chế, biết cách xóa bỏ nó không. Trong 14 lời dạy của Phật có một điều rất chí lý: Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình. Nạn thiếu biết những điều cần và thừa biết những điều không cần Trí nhớ của con người có hạn, khả năng ghi nhận giải mã thông tin của con người... có hạn; hãy dành cho những tích lũy có ích. Con người là tinh hoa của muôn loài nhưng con người cũng là một thực thể phức tạp. Sự hình thành tính cách và mức độ tài năng phụ thuộc không ít vào hướng và cách trau dồi tiềm năng hiểu biết. là nạn "thiếu hiểu biết ,những điều cần và thừa biết, những điều không cần".

3.8. Sai lầm của người này là bài học của người khác .

Trong cuộc sống không có điều gì diễn ra mà không có ý nghĩa đối với con người. Ngay một vở kịch dở, một cuốn sách nhạt nhẽo, nếu biết xem nó, đọc nó, vẫn có thể rút ra những điều bổ ích. Đặc biệt, một sai lầm, thậm chí một sai lầm nghiêm trọng của ai đó càng có ý nghĩa đối với những người chứng kiến nó, hiểu rõ về nó. Một sai lầm do chuẩn bị không đầy đủ của ai đó rất bổ ích cho những người tinh thần trách nhiệm còn hạn chế hay tư tưởng chủ quan, tác phong đại khái. Một sai lầm của ai đó do áp dụng trật kỹ thuật, do biện pháp thực thi không thích hợp cũng rất có lợi cho những cán bộ chuyên môn chưa thành thạo nghề nghiệp. Một sai lầm của ai đó do thiếu sự phối hợp tốt giữa các bộ phận do quy trình thực hiện nó lộn xộn lại rất có ích về mặt tổ chức cho những người đóng vai trò tổ chức điều hành. Đó là những bài học kinh nghiệm. Thành ngữ của phương Đông "Sai lầm của người này là bài học của người khác" là rất chính xác. (Nguồn: Những bài viết dư luận quan tâm Cập nhật lần cuối:09/07/2017 )

IV. GIẢI PHÁP VỀ LẼ SỐNG CHO NHÂN LOẠI

4.1. Thực hiện thuyết Âm Dương giao hòa

a.Thuyết âm dương là động lực của mọi hiện tượng, mọi vận động trong vũ trụ.

Theo cách nói của triết học Tây phương thì thái cực chính là mâu thuẫn, nó là sự hợp nhất của hai mặt đối lập: dương và âm. Sự đấu tranh của hai mặt dương âm này làm cho vũ trụ phát triển không ngừng. Hai mặt này không bao giờ tồn tại riêng rẽ: dương mà không có âm thì không còn là dương, âm mà không có dương cũng không còn là âm. Dương phát triển đến cực thịnh thì chuyển thành âm, âm phát triển đến cực thịnh thì chuyển thành dương. Ví dụ, tốt quá hoá xấu, xấu quá cũng chuyển thành tốt. Khi dương thịnh thì âm suy, mặt đối lập của nó, đóng vai trò một cái phanh kìm hãm không cho dương phát triển quá lố, đến mức cực đoan. Ngược lại cũng vậy, khi âm thịnh thì dương là cái phanh kìm hãm không cho nó phát triển quá mức.Trên thế giới hiện nay, người ta phân biệt các nước tư bản chủ nghĩa với các nước xã hội chủ nghĩa, dựa trên tiêu chí: các nước tư bản chủ nghĩa nhằm thu được lợi nhuận tối đa, còn các nước xã hội chủ nghĩa lại nhằm đạt được hạnh phúc tối đa cho nhân dân.

b. Vận dụng trong xã hội và gia đình

- Một tổ chức nhiều nam quá hay nhiếu nữ quá thì hay sinh mâu thuẫn mất đoàn kết tạo thành phe cánh làm sai luật … Một gia đình nhiều nam thì Dương thinh Am Suy hay sinh tự do khó quản lý, nhiều nữ quá thì Âm Thịnh, Dương suy cũng vậy Nếu lãnh đạo cơ quan tỷ lệ nam nữ gằn bằng nhau thì cơ quan phát triển tốt . Nếu nhà ở tối tăm ẩm ứơt thì là nơi trú ngụ của vi trùng, ma quỷ dễ gây bệnh tật cho người trong nhà cần phải làm tăng khí dương làm cho nhà sáng sủa sẽ bớt bệnh tật… Trong Phong Thủy bếp đặt hướng Âm, Cung âm thì nhà sinh nữ nhiều nam ít, Phụ nữ nắm Quyền Có khi không có con trai nối dòng Cần sửa bếp thì có trai gái cân bằng… (Cách cải số Phong Thủy theo quan điểm của người Xua của GS Cao Ngọc Lân NXB Lao Động 2011)

4.2. Vận dụng cho Quy luật sinh khắc

a. Quy luật tương sinh, tương khắc

Tương sinh, tương khắc có quan hệ không thể tách rời, là hai mặt của một sự vật. Không có sinh thì sự vật không tồn tại và phát triển được. Không có tương khắc thì sự vật không duy trì sự cân bằng và điều hoà trong sự phát triển. Không có tương sinh thì không có tương khắc và ngược lại. Mối quan hệ trong sinh có khắc và trong khắc có sinh, tương phản tương thành dựa vào nhau để phát triển này đã luôn thúc đẩy sự vật tồn tại và phát triển, không ngừng biến hoá.

Trong Ngũ Hành không chỉ duy trì mối quan hệ sinh khắc mà còn xuất hiện sự sinh khắc ngược lại như Thuỷ khắc nếu Thuỷ suy mà Hoả vượng. Kim bị khắc nếu Kim suy yếu mà Mộc vượng (Mộc nhiều và cứng thì kim bị cùn hay gãy). Mộc bị khắc nếu Mộc suy yếu mà Thổ vượng .(Thổ Đất cúng , cằn cỡi thì cây không mọc hay phát triển được ). Thổ bị khắc nếu Thổ suy yếu mà Thuỷ vượng.( Nước nhiều thì đê vỡ Thủy phá thổ ). Đó là mối quan hệ rất biện chứng của Ngũ Hành. Trong thực tế vận dụng, Ngũ Hành có thể được phân chia chi tiết hơn như Hành Hoả có thể phân thành Thiên Thượng Hoả (Lửa trên trời), Tích Lịch Hoả (Lửa sấm sét), Sơn Hạ Hoả (Lửa dưới núi),… với những đặc tính khác nhau về chi tiết.

Học thuyết Ngũ Hành mang tính triết học và khái quát rất lớn bao trùm mọi sự vật hiện tượng và vận động trong vũ trụ. Ngũ Hành liên hệ phản ảnh bốn mùa, phản ảnh màu sắc, phương vị, vận động,…Con người cũng là một vũ trụ thu nhỏ nên trong con người cũng được chia theo Ngũ Hành tương ứng với các bộ phận và Hành động. Ví dụ, Mộc ứng với tạng phủ là gan, giác quan là mắt, thể là gân cốt.
Học thuyết Ngũ Hành là nền tảng cơ bản của tất cả các môn khoa học Thần bí . Ứng dụng khác như Y học, Dịch Học, Bát Tự, Tướng Pháp, Tử Vi, Phong Thuỷ,…

Tất cả các cơ chế suy luận đều lấy quy luật của học thuyết Ngũ Hành làm tiền đề. Những ứng dụng của học thuyết Ngũ Hành thật to lớn không thể kể hết ra ở đây.

b. Vận dung Quy luật sinh, khắc trong hôn nhân, sinh con, kết bạn hóa giải điềm sấu...

Kinh nghiệm dân gian về sinh khắc rất rõ trong việc lựa chọn vợ chồng Nếu tuổi vợ chồng tương sinh là tốt 1mạng tương sinh là tốt 2, cung phi tương sinh là tốt 3 vợ chồng có ba cái tốt thì mọi sự may mắn sẽ đến khi cưới nhau vợ chồng hạnh phúc giàu sang, làm chơi ăn thật. Nếu vợ chồng khắc nhau từ 1,2,3 cái khắc thì suốt đời vất vả nhiều khi lấy nhau từ giàu trở thành ngheo, có khi không còn đủ đôi, điều này thấy rõ nhà nào khi con cái lấy nhau đều tìm thầy để hỏi tuổi, năm tháng ngày cưới. Trong cơ quan bất kể cấp nào khi người lãnh đạo sinh khắc nhau thì sẽ có hiện tượng mất đoàn kết bè phái sự nghiệp không phát triển… Khi vợ chồng muốn sinh con đều chọ năm cho đứa trẻ ta đời hợp tuổi vợ chồng thì cả cha mẹ và con đều tốt, nếu sinh con cái sinh khắc thì sẽ có người bị khắc bệnh tật ngheo khó, nhiều chuyện không hay sẽ đến gọi là tai bay họa gửi…

4.3 .Vận dụng mối Quan hệ: Thiên- Địa -Nhân trong đời sống

a. Luân hồi và Nghiệp Chướng

Thuyết luân hồi mang hy vọng cho nhiều người. Nếu đời này chúng ta chưa làm được, chúng ta có cơ hội khác vào lần sau. Tuy nhiên, thậm chí những người tin vào thuyết luân hồi cũng thú nhận rằng đa số người ta không nhớ về kiếp trước của họ. Vậy làm sao chúng ta có thể học được từ những sai lầm trong quá khứ nếu chúng ta không thể nhớ nổi chúng? Chúng ta có xu hướng phạm cùng một sai lầm hết lần này đến lần khác. Tính đến tỷ lệ vi phạm đạo đức trong lịch sử nhân loại, liệu chúng ta có lý do để hy vọng rằng chúng ta sẽ làm đúng trong cuộc sống tương lai?

Thuyết luân hồi còn tuyên bố đảm bảo công lý. Theo luật nghiệp báo (một quy tắc bất biết và phi thân vị của vũ trụ), chúng ta nhận được điều mình xứng đáng trong mỗi kiếp sống. Việc thiện hay ác tạo nên kết quả tốt hay xấu từ kiếp này sang kiếp khác. Với nghiệp chướng, không có cái gọi là đau khổ không công bằng, bởi vì chẳng có ai là vô tội. Tất cả mọi đau khổ đều là đáng do nghiệp xấu.

b “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.

Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”. Kì thực đây là những quan niệm bắt nguồn từ cơ sở lí luận hạt nhân của triết lí phật giáo. Có thể nói, không hiểu quy luật “nhân quả” tức chưa thực sự hiểu về Phật giáo. Theo giáo lí nhà Phật, “Nhân quả” hay còn gọi là “nghiệp, nhân, duyên, quả, báo”. Trong đó từ ý nghĩa của từ “nghiệp” có thể hiểu là hoạt động, tạo tác của cơ thể và tâm ý con người, tức tất cả hành vi, lời nói tư tưởng. Theo cơ quan tạo tác, nghiệp được chia thành “thân nghiệp’, “khẩu nghiệp” và “ý nghiệp”, tức hành vi thân thể, lời nói và ý nghĩ. Về tính chất, nghiệp lại được chia thành ba loại đó là “thiện nghiệp”, “ác nghiệp” và “không thiện không ác”. Tuy “nghiệp” là cái không thể nhìn thấy, không sờ mó thấy nhưng nó lại có sức ảnh hưởng rất lớn, nó chi phối cuộc sống của con người. Nói một cách đơn giản, “nghiệp” chính là nguyên nhân hay còn gọi “nhân nghiệp”. “Quả” là kết quả, “báo” có nghĩa là báo ứng, ứng vào. Khi báo ứng tạo ra kết quả vui buồn sướng khổ cũng khác nhau, đúng như câu khái quát của triết lí này là “thiện có thiện báo, ác có ác báo”. Cụ thể, có cái thiện như thế nào thì sẽ tạo ra cái phúc thế ấy. Có cái ác như thế nào thì sẽ nhận được cái khổ tương ứng. “Thiện” là làm lợi cho người khác, khi làm điều có lợi cho người khác cũng chính là làm lợi cho mình. “Ác” là làm hại người khác, cũng chính là tự hại mình, khi bắt đầu hại người thì kết thúc sẽ là làm hại mình.

c. Quy luật khách quan, “luật nhân quả”. Áp dụng cho mọi chúng sinh .

- Quy luật này có mối liên hệ mật thiết với sự sống chết luân hồi. Con người có sinh ra thì có chết đi, chết rồi lại được đầu thai để sinh ra, sự sinh tử luân hồi ấy là từ nhân đến quả, từ quả đến nhân, liên tục không ngừng. Con người khi sinh ra ở chỗ nào, khi chết đi sẽ đi về đâu đều do cái nghiệp tự tạo ra trước đó chi phối. Nghiệp giống như một hạt giống, một tin tức được cất giữ trong kho, nhà phật gọi là thức thứ tám hoặc tàng thức, kho ấy có tác dụng vận chuyển những điều thiện ác từ kiếp trước (quá khứ) của một con người đến kiếp sống hiện tại của người đó. Sau đó, nó lại vận chuyển những việc thiện ác của cuộc sống hiện tại đến kiếp sống tiếp theo, tức tương lai. Muốn biết kiếp trước của người đó như thế nào, nhìn những điều họ đang phải nhận là có thể biết được. Muốn biết kiếp sau của người đó thế nào thì nhìn vào những việc họ đang làm là có thể biết được. Vì vậy mới có thể nói, từ nghiệp nhân đến quả báo, từ quả báo đến nghiệp nhân cứ lưu chuyển luân hồi liên tục không không bao giờ ngừng nghỉ. Những điều vui sướng buồn khổ, thế vận hưng thịnh suy thoái trong cuộc sống mỗi con người hiện tại cũng đều do cái nghiệp của người đó tạo ra từ trước. Có người giàu có hỏi: Cái gì tôi dùng tiền cũng mua được chỉ có luật trời là không mua được, đó là luật Nhân- quả do Hội đồng nhà Trời định ra.

Kính thưa toàn thể Hội Nghị Tất cả Qúy vị tham dự trong hội nghị này chắc chắn từ nhiều kiếp trước đã làm nhiều điều thiện lớn cho dân cho nước nên kiép này là người có chúc có quyền lại tiếp tục làm lợi cho dân cho nước mang đến lợi ích cho dân tộc, xã hội, Với con người. Mọi thứ trong cuộc đời có thể mất đi cả cả mạng sốn nhưng cái phúc do mình tao ra không bao giờ bị mất vì phúc sẽ lưu giữ cho những đời sau của mình và gia đình người tạo phúc theo luật trời dây cũng là nội dung mà hội nghị mang đến cho mọi người. Trước khi dứt lời tôi xin chân thành cảm ơn hội nghị “Từ thiện và thiện nguyện”, Kínhchúc sức khỏe quý vị, chúc hội nghị thành công tốt đẹp.

(Trích bài Hiểu quy luật nhân quả để đời người không uổng phí PLVN Chủ Nhật, 20/1/2019).



TP Hồ Chí Minh Ngày 18/04/2019. Người viết: GS.TS. Kỷ lục gia Cao Ngọc Lân. Thành viên Viện kỷ lục Việt Nam.